TPO - 2023 là năm đầu tiên mà hầu hết các thị trường du học lớn trở lại bình thường sau khoảng thời gian gián đoạn vì COVID-19. Vậy nên du học nước nào trong năm 2023?
TPO - 2023 là năm đầu tiên mà hầu hết các thị trường du học lớn trở lại bình thường sau khoảng thời gian gián đoạn vì COVID-19. Vậy nên du học nước nào trong năm 2023?
7,8 triệu lao động không còn bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19
Tại họp báo về tình hình lao động, việc làm quý I/2022 do Tổng cục Thống kê (TCTK), Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức ngày 12/4, Phó Tổng cục trưởng TCTK Nguyễn Trung Tiến cho biết, thị trường lao động dần phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá. Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng so với quý trước (quý IV/2021) và so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước trong quý I/2022 là 51,2 triệu người, tăng hơn 441.000 người so với quý trước và tăng gần 160.000 người so với cùng kỳ năm 2021. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động quý I/2022 là 68,1%. So với quý trước, lực lượng lao động ở cả gia khu vực nông thôn và thành thị đều tăng khoảng 200.000 người. Lao động có việc làm ghi nhận mức tăng ở cả khối doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh cá thể.
Từ đầu năm đến nay, mặc dù cả nước vẫn còn hơn 16,9 triệu người từ 15 tuổi trở lên chịu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19 nhưng con số này đã giảm mạnh so với quý trước (giảm 7,8 triệu người). Đây là mức giảm mạnh nhất được ghi nhận kể từ khi đất nước chứng kiến sự bùng phát của đại dịch COVID-19.
Ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê dân số và Lao động, TCTK cho hay, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động đều giảm so với quý trước, tuy vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng mức độ giảm dần. Đặc biệt, vấn đề thiếu việc làm ở khu vực dịch vụ đã được cải thiện đáng kể.
So với quý trước, số người thiếu việc làm quý I/2022 là 1,3 triệu người, giảm 135.200 người; tỉ lệ thiếu việc làm của lao động là 3,01%, giảm 0,36 điểm phần trăm.
"Nghị quyết 68/NQ-CP, Nghị quyết 126/NQ-CP của Chính phủ được triển khai kịp thời đã hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn trả lương cho người lao động, hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn, bảo đảm duy trì việc làm cho người người lao động. Những chính sách này đã làm cho tình trạng thiếu việc làm 3 tháng đầu năm được cải thiện, tiếp nối thành quả đã ghi nhận được ở quý IV/2021", ông Nam khẳng định.
Lao động tại khu vực từng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất giờ có mức thu nhập bình quân cao nhất
Cũng theo TCTK, thu nhập bình quân tháng của người lao động quý I đạt 6,4 triệu đồng, tăng 1 triệu đồng so với quý trước và tăng 110.000 đồng so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam cao gấp 1,36 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ (7,3 triệu đồng so với 5,4 triệu đồng).
Điểm sáng nổi bật là thu nhập bình quân tháng của lao động tăng mạnh tại vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, nhất là tại TPHCM. Cụ thể, thu nhập bình quân tháng của lao động vùng Đông Nam Bộ tăng cao nhất trong 6 vùng kinh tế-xã hội, với mức thu nhập bình quân 8,3 triệu đồng, tăng 36,8%, tương ứng tăng 2,2 triệu đồng so với quý trước.
Đặc biệt, lao động tại TPHCM, Bình Dương và Đồng Nai có mức thu nhập bình quân cao nhất cả nước, khoảng hơn 8 triệu đồng/người/tháng. Tại TPHCM, thu nhập bình quân của lao động là 8,9 triệu đồng/người, tăng 36,5%, tương ứng tăng 2,4 triệu đồng so với quý trước; thu nhập của người lao động tại Bình Dương là 8,6 triệu đồng/người/tháng, tăng 54 %, tương ứng tăng 3 triệu so với quý trước; lao động tại Đồng Nai có thu nhập bình quân là 8,5 triệu đồng, tăng 32,9%, tương ứng tăng 2,1 triệu đồng so với quý trước.
Tuy nhiên, theo lãnh đạo TCTK, dù có nhiều khởi sắc nhưng thị trường lao động Việt Nam vẫn còn tiềm ẩn một số yếu tố thiếu bền vững. Số người có việc làm tăng nhanh nhưng tăng nhiều ở lao động phi chính thức. Tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ lao động không sử dụng hết tiềm năng giảm những vẫn còn ở mức tương đối cao. Lao động "tự sản tự tiêu" giảm nhưng vẫn chưa trở về trạng thái bình thường ban đầu khi chưa xảy ra đại dịch.
Trước tình hình, đó TCTK đề xuất tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, đẩy nhanh thực hiện chương trình phục hồi và phát triển kinh tế. Đồng thời, thực hiện tích cực các chính sách thu hút lao động tự sản tự tiêu và nghiên cứu xây dựng các chương trình đào tạo phù hợp, nâng cao chất lượng nguồn lao động./.
10 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu thép Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu (EU) chiếm 24,1% tỷ trọng về kim ngạch, đạt 2,2 triệu tấn, tăng mạnh 86,2% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu sắt thép các loại của Việt Nam trong tháng 10/2023 tăng trở lại, đạt 908.142 tấn, tăng 5,% so với tháng 9 và tăng mạnh 71,5% so với cùng kỳ năm 2022. Kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 656,41 triệu USD tăng 7,5% so với tháng 9/2023 và tăng 51,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Trước đó, năm 2022 Việt Nam nhập siêu sắt thép 3,93 tỷ USD. Như vậy sau lần xuất siêu đầu tiên vào năm 2021, Việt Nam đã quay trở lại nhập siêu trong năm 2022 và 2023.
Lũy kế 10 tháng đầu năm 2023, sản lượng xuất khẩu sắt thép các loại đạt trên 9,1 triệu tấn, tương đương 6,95 tỷ USD, kim ngạch đạt 6,95 tỷ USD, tăng 30,7% về lượng và tăng 0,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022. Giá xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2023 đạt 760 USD/tấn, giảm 23,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), tổng xuất khẩu thép của các thành viên VSA 10 tháng năm 2023 đạt trên 6,7 triệu tấn thép các loại, tăng trưởng 26,1% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó dấu ấn tăng trưởng 201% so với cùng kỳ năm 2022 ghi nhận ở mặt hàng thép cuộn cán nóng (HRC) với mức sản lượng xuất khẩu đạt trên 2,8 triệu tấn; tiếp sau đó là xuất khẩu tôn mạ đạt trên 1,8 triệu tấn, tăng trưởng 2,8%; ống thép đạt 0,25 triệu tấn, tăng trưởng 17%. Hai mặt hàng xuất khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ là thép xây dựng đạt 1,4 triệu tấn giảm 27% và thép cuộn cán nguội đạt 0,36 triệu tấn giảm 16,4%.
10 thị trường xuất khẩu thép lớn nhất của Việt Nam trong năm 2023 tính tới hết tháng 10 lần lượt là Itlay, Campuchia, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia, Bỉ, Tây Ban Nha, Đài Loan (Trung Quốc) và Thái Lan.
Điểm sáng trong bức tranh xuất khẩu thép là thị trường EU, chiếm 24,1% tỷ trọng về kim ngạch, đạt 2,2 triệu tấn, tăng mạnh 86,2% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Italy tăng tới 127,7%, đạt 1,355 triệu tấn, Bỉ tăng 30,1%, Tây Ban Nha tăng 70,2%…
Theo Hiệp hội Thép Châu Âu (EUROFER), Việt Nam chiếm 8,1% tổng lượng thép thành phẩm nhập khẩu vào châu Âu trong 8 tháng năm 2023. Trong khi nhập khẩu thép thành phẩm từ Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc và Ấn Độ giảm mạnh (lần lượt là -59%, -11% và -3%) thì nhập khẩu từ Việt Nam tăng 15%.
Xuất khẩu sắt thép sang thị trường Ấn Độ ghi nhận mức tăng trưởng đột biến. Cụ thể, xuất khẩu sắt thép các loại sang Ấn Độ tháng 10 đạt 198.418 tấn, trị giá 139,6 triệu USD, tăng mạnh 2.346% về lượng và tăng 1.103% về kim ngạch so với tháng 10/2022. Đây cũng là tháng ghi nhận sản lượng xuất khẩu cao nhất kể từ đầu năm 2023.
Tính đến hết tháng 10, xuất khẩu sắt thép sang thị trường này đạt hơn 733.830 tấn, tương đương hơn 539,8 triệu USD, tăng 1.464% về lượng và tăng 682% về trị giá, đưa Ấn Độ trở thành thị trường xuất khẩu thép lớn thứ 4 của Việt Nam. Giá xuất khẩu trung bình trong 10 tháng đầu năm đạt 735,6 USD/tấn, giảm mạnh 50% so với cùng kỳ năm 2022.
Hiện, Hiệp hội Thép Thế giới (Worldsteel) cũng đã cập nhật về triển vọng ngắn hạn cho năm 2023 và 2024 với dự báo nhu cầu thép sẽ tăng 1,8% trong năm 2023 và đạt 1.814,5 triệu tấn sau khi giảm 3,3% trong năm 2022. Năm 2024, nhu cầu thép dự kiến tăng 1,9% đạt 1.849,1 triệu tấn.
là do nguồn cung vượt quá so với nhu cầu. Hiện nay, cả nước có 58 nhà máy, với 83 dây chuyền, công suất thiết kế 112,5 triệu tấn/năm. Nhưng do ứng dụng cải tạo chiều sâu nên công suất thực tế có thể lên tới gần 120 triệu tấn/năm, trong khi tiêu thụ xi măng toàn xã hội giảm tới 16,9%, so với năm 2022.
Giải quyết dư thừa bằng cách xuất khẩu xi măng nhưng năm 2023 dù xuất khẩu 31,3 triệu tấn, bằng 99,5% so năm 2022 nhưng giá xuất khẩu
(FOB Quảng Ninh) giảm sâu so với cuối năm 2022, cụ thể, giá xi măng giảm 5 - 6 USD/tấn, giá clinker giảm 9 - 10 USD/tấn.
Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng liên quan đến giá nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất xi măng, mặc dù đã giảm, nhưng vẫn ở mức cao.
PGS.TS Lương Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam nhận định, giai đoạn này,
đang chịu áp lực lớn, khi khả năng hấp thụ xi măng của nền kinh tế trong nước kém. Giá điện, than và các nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất đều tăng, có thời điểm giá than tăng gấp 3 lần; năm 2023, giá bán lẻ điện bình quân tăng 7,5%... Mặt khác, doanh nghiệp xi măng trong nước đang phải chịu bất lợi khi thuế xuất khẩu clinker tăng từ 5% lên 10%, từ ngày 01/01/2023, không được áp dụng luật thuế giá trị gia tăng.
Tất cả những khó khăn đó đẩy ngành Xi măng vào thế khó, tiến thoái lưỡng nan. Nếu doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh, không thay đổi buộc phải dừng lại. Một số nhà máy có vốn vay đầu tư lớn, nợ ngân hàng nhiều có thể phá sản hoặc phải bán tháo cho nước ngoài. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 8 dây chuyền sản xuất xi măng phải ngừng hoạt động, nhiều nhà máy phải dừng 1 hoặc 2 dây chuyền để giảm lượng tồn kho xi măng.
Theo tính toán của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, năm 2023, cả nước sản xuất và tiêu thụ gần 88,6 triệu tấn xi măng và clinker, đạt gần 79% năng lực sản xuất của 83 dây chuyền, khoảng 70% năng lực thực tế.
nội địa năm 2023 đạt 57,083 triệu tấn, bằng 84,3% tiêu thụ nội địa năm 2022.
Mỗi doanh nghiệp sẽ phải có giải pháp, chiến lược khác nhau để vượt qua khó khăn, thách thức, trong giai đoạn hiện nay. Nhưng một giải pháp chung được nhiều doanh nghiệp xi măng lớn thực hiện, đó là đổi mới sáng tạo, hướng tới nền sản xuất xanh, tiết kiệm tài nguyên. Đây cũng là hướng đi tất yếu của ngành Xi măng trong tương lai, hướng đến sản xuất xanh và kinh tế tuần hoàn.
Theo ông Đào Nguyên Khánh, Trưởng bộ phận PTBV và Truyền thông Insee Việt Nam cho biết, Insee Việt Nam chọn giải pháp đẩy mạnh cải tiến công nghệ, tối ưu hóa chi phí sản xuất. Ban lãnh đạo Insee Việt Nam quyết định dừng 1 trạm nghiền để tối ưu hóa chi phí, đồng thời gia tăng xử lý chất thải, tăng tỷ lệ thay thế nhiệt. Trạm nghiền Hòn Chông của Insee Việt Nam đạt kỷ lục mới, giảm chi phí và biến phí rất lớn.
lớn nhất Đông Nam Á, có vai trò dẫn dắt, bình ổn thị trường xi măng Việt Nam. Trong giai đoạn này, Vicem tập trung đổi mới sáng tạo, tiết kiệm chi phí, tăng cường sử dụng rác thải làm nhiên nguyện liệu thay thế, sử dụng bùn thải thay thế sét, sử dụng thạch cao nhân tạo thay thế thạch cao tự nhiên; nghiên cứu sản phẩm mới giảm phát thải ra môi trường, góp phần tiết giảm chi phí sản xuất, bảo vệ môi trường, giảm sử dụng tài nguyên không tái tạo.
Một giải pháp nữa được nhiều doanh nghiệp xi măng lựa chọn đó là tiết giảm chi phí, tái cấu trúc doanh nghiệp, tập trung chuyển đổi số, số hóa trong sản xuất kinh doanh.
Nhận định năm 2024 nhu cầu xi măng trong nước khó tăng trưởng cao. Việc giải ngân vốn đầu tư công tại các địa phương còn chậm, do vướng mắc về thủ tục pháp lý, giải phóng mặt bằng... Thị trường bất động sản sẽ phục hồi nhưng chưa thể sôi động ngay trở lại. Bên cạnh đó, nguồn cung xi măng tiếp tục vượt xa cầu, một số dây chuyền mới có thể đi vào sản xuất như: Vissai Đại Dương 2, Xi măng Xuân Sơn...
, clinker dự báo sẽ tiếp tục gặp khó do thị trường bất động sản Trung Quốc chưa có dấu hiệu phục hồi; xi măng của Trung Quốc dư thừa, sẽ cạnh tranh với xi măng Việt Nam vào các thị trường như Philippines, Trung Mỹ, Nam Phi... Thêm vào đó, từ tháng 10/2023, châu Âu bắt đầu triển khai cơ chế điều chỉnh biên giới carbon đối với xi măng nhập khẩu, sẽ là thách thức lớn với doanh nghiệp xuất khẩu xi măng sang châu Âu.
Theo PGS.TS Lương Đức Long, Tổng Thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam, thị trường tiêu thụ xi măng năm 2024 sẽ khá hơn năm 2023, do nước ta đang trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng nên nhu cầu sử dụng xi măng còn nhiều. Với sự quyết liệt của Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, hy vọng năm 2024 tốc độ giải ngân vốn đầu tư công sẽ khá hơn.
Quy luật thông thường là đường tăng trưởng GDP và tăng trưởng xi măng đồng biến; nghĩa là GDP tăng thì tiêu thụ xi măng sẽ tăng. Tăng trưởng
trong nước từ năm 2013 đến 2023 (bình quân số học) chỉ đạt 2,35%, trong khi bình quân tăng trưởng GDP giai đoạn này là 5,71%. Như vậy, trong 11 năm vừa qua, mức tăng trưởng tiêu thụ xi măng nội địa của Việt Nam thấp.
Để giúp ngành Xi măng vượt qua khó khăn hiện nay, TS. Nguyễn Quang Hiệp, Phó vụ trưởng Vụ Vật liệu xây dựng cho rằng, ngoài đẩy nhanh triển khai các dự án đầu tư công, xây dựng kết cấu hạ tầng, tháo gỡ khó khăn cho thị trường bất động sản; đẩy nhanh đầu tư xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội thì về chính sách thuế, kiến nghị Chính phủ tạm hoãn việc tăng thuế xuất khẩu clinker từ 5% lên 10% và tạm giữ mức thuế suất
ở mức cũ 5% thêm 2 năm. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ xem xét, sửa đổi chính sách thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm clinker xuất khẩu, theo hướng sản xuất clinker xuất khẩu không thuộc đối tượng hàng hóa không chịu thuế giá trị gia tăng.
Đại diện Hiệp hội Xi măng Việt Nam kiến nghị, khẩn trương ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn về việc sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế cho các ngành công nghiệp, trong đó có ngành Xi măng. Có chính sách khuyến khích về thuế, tài chính cho nhà máy sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế. Tạo điều kiện để việc vận chuyển, tái sử dụng các chất thải, rác thải làm nguyên, nhiên liệu thay thế được thuận tiện. Cần ban hành các quy định, hướng dẫn các nhà máy xi măng thực hiện kiểm kê, báo cáo phát thải khí nhà kính.